top of page
  • minhn3691

LỊCH DO THÁI LÀ GÌ?




Lịch Do Thái Nhân dịp đầu năm, mời bạn tìm hiểu vài khái niệm thời gian trong Lịch Do Thái. Trong khi người Việt dùng hai loại lịch là Dương Lịch và Âm Lịch, người Do Thái dùng ba loại lịch. Ngoài Dương Lịch theo lịch Gregorian như người Việt, người Do Thái còn có Lịch Dân Sự (Civil Calender), dùng cho việc hộ tịch, và Lịch Do Thái (Jewish Calender) – là lịch để tính các ngày lễ tôn giáo. Lịch Dân Sự đi sớm hơn Lịch Do Thái 6 tháng. Tháng 1 trong Lịch Do Thái là tháng 7 trong Lịch Dân Sự, và vào khoảng giữa tháng 3 và tháng 4 của Dương Lịch. Ngày Trong Dương Lịch, ngày là khoảng thời gian kéo dài 24 giờ.


Lịch Do Thái, ngày không có một khoảng thời gian nhất định. Lịch Do Thái định nghĩa ngày là khoảng thời gian giữa hai buổi hoàng hôn. Định nghĩa này có vài điểm đáng lưu ý. Thứ nhất, ngày của người Do Thái bắt đầu vào buổi tối. Điều này xuất phát từ thứ tự của ngày được ghi lại trong Sáng Thế Ký 1:5 “Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhất.” Những ngày kế tiếp trong Sáng Thế Ký chương 1 cũng được mô tả theo trình tự như vậy: buổi tối đến trước và buổi sáng đến sau. Thứ hai, để có thể xác định khởi đầu của một ngày là lúc nào, người Do Thái cần biết khi nào là lúc hoàng hôn. Quan điểm phổ thông cho rằng hoàng hôn là lúc mặt trời lặn; tuy nhiên một luật cổ xưa của người Do Thái đã định nghĩa rằng hoàng hôn không phải là lúc mặt trời lặn nhưng là lúc ba ngôi sao đầu tiên xuất hiện trên bầu trời. Hai quan điểm khác nhau này đã dẫn đến sự khác biệt trong việc xác định ngày sinh của một đứa bé nếu đứa bé được sinh ra trong khoảng thời gian sau khi mặt trời lặn và trước khi sao hôm mọc. Quan điểm phổ thông cho rằng đứa bé sinh trong khoảng thời gian này đã sinh vào ngày mới vì mặt trời đã lặn; trong khi đó quan điểm truyền thống cho rằng đứa bé vẫn còn sinh ra trong ngày hôm trước vì sao Hôm vẫn chưa mọc.


Giờ Giờ trong Lịch Do Thái cũng không có một khoảng thời gian nhất định. Lịch Do Thái định nghĩa một giờ là 1/12 khoảng thời gian giữa lúc mặt trời mọc và lúc mặt trời lặn. Vào mùa đông vì ngày ngắn hơn đêm cho nên một giờ trong Lịch Do Thái ngắn hơn 60 phút. Ngược lại, vào mùa hè vì ngày dài hơn đêm cho nên một giờ trong Lịch Do Thái dài hơn 60 phút. Giờ trong Lịch Do Thái được chia làm 1080 phần (helek), mỗi phần tương đương với 10/3 giây, hay 1/18 phút. Canh Lịch Do Thái vào thời xưa còn chia một ngày thành tám canh: bốn canh đêm và bốn canh ngày. Vào ban đêm, canh thứ nhất bắt đầu từ lúc hoàng hôn đến 9 giờ khuya; canh thứ hai từ lúc 9 giờ khuya đến nửa đêm, canh thứ ba từ nửa đêm đến 3 giờ sáng; và canh thứ tư từ 3 giờ sáng đến lúc mặt trời mọc. Tương tự, vào ban ngày, canh thứ nhất bắt đầu từ lúc mặt trời mọc đến 9 giờ sáng; canh thứ hai từ 9 giờ sáng đến giữa trưa, canh thứ ba từ giữa trưa đến 3 giờ chiều; và canh thứ tư từ 3 giờ chiều đến lúc mặt trời lặn.


Tuần Lịch Do Thái có tuần lễ theo chu kỳ 7 ngày sáng tạo đã được ghi lại trong Kinh Thánh. Tên của 6 ngày đầu tiên được gọi đơn giản theo thứ tự từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu. Tuy nhiên ngày thứ bảy thì không được gọi theo thứ tự là ngày thứ bảy, nhưng được gọi là ngày Shabbat – שבת, nghĩa là ngày “an nghỉ”. Tên của 7 ngày trong tuần trong Lịch Do Thái như sau: Yom Rishon – יום ראשון (viết tắt là יום א׳) nghĩa là “ngày thứ nhất” tương ứng với Chúa Nhật. Như đã nói ở trên, ngày thứ nhất bắt đầu vào hoàng hôn của ngày Shabbat. Yom Sheni – יום שני (viết tắt là יום ב׳) nghĩa là “ngày thứ hai” tương ứng với thứ Hai. Yom Shlishi – יום שלישי (viết tắt là יום ג׳) nghĩa là “ngày thứ ba” tương ứng với thứ Ba. Yom Reviʻi – יום רביעי (viết tắt là יום ד׳) nghĩa là “ngày thứ tư” tương ứng với thứ Tư. Yom Chamishi – יום חמישי (viết tắt là יום ה׳) nghĩa là “ngày thứ năm” tương ứng với thứ Năm. Yom Shishi – יום ששי (viết tắt là יום ו׳) nghĩa là “ngày thứ sáu” tương ứng với thứ Sáu. Yom Shabbat – יום שבת (viết tắt là יום ש׳), thường được viết gọn là Shabbat – שבת, nghĩa là ngày nghỉ.


Tháng Lịch Do Thái có 12 tháng. Mỗi tháng bắt đầu vào ngày trăng mới. Tên của 12 tháng và số ngày của mỗi tháng như sau:


Tháng Theo Dương Lịch Tháng Theo Lịch Do Thái Tên Tháng Trong Lịch Do Thái Ngày Trong Tháng

3-4 1 Nisan 30

4-5 2 Iyar 29

5-6 3 Sivan 30

6-7 4 Tammuz 29

7-8 5 Av 30

8-9 6 Elul 29

9-10 7 Tishrei 30

10-11 8 Marcheshvan 29 hay 30

11-12 9 Kislev 29 hay 30

12-1 10 Tevet 29

1-2 11 Shevat 30

2-3 12 Adar 29


Tổng cộng 353, 354, 355 Năm Lịch Do Thái được tính dựa trên chu kỳ của mặt trăng. Vì chu kỳ trung bình của mặt trăng là 29,530588 ngày (29 ngày, 12 giờ, 44 phút, 2,8 giây) và ngày đầu tháng phải là ngày trăng mới, do đó số ngày trong tháng của Lịch Do Thái thường luân phiên giữa 30 ngày và 29 ngày. Tuy nhiên, có hai tháng là Marcheshvan (tháng Tám) và Kislev (tháng Chín) có thể là 29 hay 30 ngày. Kết quả là một năm trong Lịch Do Thái có thể có 353, 354 hay 355 ngày. Vì mỗi năm trong Lịch Do Thái ít hơn năm Dương Lịch từ 10 đến 12 ngày; cho nên để giữ cho không bị sai lệch quá nhiều với năm Dương Lịch, cứ khoảng 2 hay 3 năm, Lịch Do Thái có thêm một tháng nhuần. Tháng nhuần luôn luôn là tháng Adar (tháng 12). Cứ mỗi chu kỳ 19 năm, Lịch Do Thái có 7 năm có tháng nhuần. Những năm có tháng nhuần trong chu kỳ 19 năm là năm thứ 3, 6, 8, 11, 14, 17, và 19.


Ngày Lễ Dưới đây là vài ngày lễ quan trọng của người Do Thái có nguồn gốc từ Thánh Kinh. Lễ Vượt Qua (Passover) – còn gọi là Lễ Bánh Không Men (Unleaven Bread). Đây là ngày lễ Đức Chúa Trời truyền cho người Do Thái giữ để nhắc cho thế hệ trẻ về việc Đức Chúa Trời cứu người Do Thái tại Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:25-27). Lễ Vượt Qua diễn ra từ ngày 14-21 tháng Nisan. Lễ Ngũ Tuần (Pentecost – Πεντηκοστή) – còn gọi là Lễ Mùa Gặt – được tổ chức 50 ngày sau Lễ Vượt Qua. Tên Lễ Ngũ Tuần trong tiếng Hy Lạp dựa vào con số 50 ngày sau Lễ Vượt


Qua; tuy nhiên trong tiếng Do Thái, lễ này kỷ niệm ngày người Do Thái thu hoạch mùa màng. Bảy nông phẩm đặc sản của Do Thái được nhắc đến trong Phục Truyền 8:8 là lúa mì, lúa mạch, nho, vả, lựu, olive, và chà là. Lễ Mùa Gặt diễn ra vào ngày 6 tháng Sivan. Lễ Kèn (Trumpet), tên chính thức là Rosh Hashanah. Trong nguyên văn Hebrew, Rosh nghĩa là “đầu” và Hashanah nghĩa là “năm”; Rosh Hashanah nghĩa là đầu năm. Đây là ngày người Do Thái mừng năm mới. Theo lời Chúa dạy trong Kinh Thánh (Lê-vi Ký 23:22 và Dân Số Ký 29:1), người Do Thái mừng ngày lễ này bằng cách thổi kèn bày tỏ niềm vui; do đó ngày lễ này còn được biết đến là ngày Lễ Kèn. Lễ Kèn diễn ra vào ngày 1-2 của tháng Tishri. Lễ Chuộc Tội (Yom Kippur) là một ngày lễ đặc biệt quan trọng với người Do Thái. Đây là ngày lễ mà Đức Chúa Trời truyền cho mọi người cư ngụ tại xứ Do Thái, bất kể đó là người bản xứ hay ngoại kiều, phải tuân giữ (Lê-vi Ký 16:29-34). Trong ngày này mọi người phải kiêng cữ lạc thú, phải được thanh tẩy, và sau đó được thầy tế lễ cầu nguyện chuộc tội (Lê-vi Ký 23:26-32). Lễ Chuộc Tội diễn ra vào ngày 10 của tháng Tishri. Lễ Trại (Sukkot) được tổ chức từ ngày 15-22 của tháng Tishri. Vào dịp này người Do Thái sống trong những căn lều làm bằng lá cây, để nhắc cho thế hệ mới nhớ lại lúc Đức Chúa Trời cứu dân Do Thái khỏi Ai Cập, họ đã phải sống 40 năm trong nhữ


ng căn lều như vậy (Lê-vi Ký 23:40-43) trước khi họ được vào Đất Hứa. Lễ Purim được tổ chức trong hai ngày 14 và 15 của tháng Adar. Đây là dịp người Do Thái kỷ niệm ngày họ được giải cứu khỏi âm mưu hủy diệt của Haman, tể tướng của Hoàng đế A-suê-ru. Vào dịp này, bên cạnh việc ăn mừng nơi công cộng, người Do Thái còn tặng quà cho nhau, và đặc biệt tặng quà cho người nghèo, như truyền thống trong ngày lễ Purim đầu tiên (Ê-xơ-tê 9:20-22).






Bài viết cho Bách Khoa Từ Điển Tin Lành Tiếng Việt

28 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
bottom of page